NỖI NIỀM NGUYỄN HUY TRƯỞNG THỜI VĂN ĐÀN BÃO TÁP
VŨ QUẦN PHƯƠNG
Tôi coi kịch bản Vũ Như Tô là tác phẩm quan trọng nhất trong giai đoạn sáng tác đầu đời, trước 1945, của Nguyễn Huy Tưởng. Vở kịch hàm chứa mối trăn trở ngàn đời của người nghệ sỹ: khi điều kiện tồn tại của nghệ thuật không thuộc về nhân dân thì nghệ thuật đi về đâu. Nếu đi với nhân dân, như ý định đầu tiên của nhà kiến trúc và xây dựng Vũ Như Tô, thì sẽ không có Cửu trùng đài, không có chỗ cho nghệ thuật xuất hiện. Vũ Như Tô đã theo lời khuyên của Đan Thiềm: nghệ thuật chịu lụy cường quyền một thời để được xuất hiện và tồn tại vĩnh cửu với mai sau. Đó cũng là ứng xử của những họa sỹ Ý nổi tiếng thời Phục hưng đối với những đòi hỏi hà khắc của giới tăng lữ giàu có. Nhờ vậy mà lòng yêu trần thể của Raphael (1483-1520), của Miken Lăng (1475-1564) đã được các mái trần giáo đường Vatican gìn giữ và nhân loại đươc chiêm ngưỡng, qua hình ảnh các thần thánh, vẻ đẹp thuần khiêt của tâm hồn và cơ thể con người do tài năng tuyệt diệu một đi không trở lại của Raphael, của Miken Lăng. Nhưng Vũ Như Tô thì thất bại: tác phẩm Cửu trùng đài bị đốt và kiến trúc sư Vũ Như Tô bị giải đến pháp trường. Kịch hết. Màn hạ. Nhưng nỗi lòng trăn trở của Nguyễn Huy Tưởng vẫn đang còn. Ông nói tràn ra ngòai vở kịch, trong Đề tựa. Lời đề tựa có mười câu, thì tới hai câu, ông dành để nhắc lại một câu hỏi này: “Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giêt Vũ Như Tô phải?”. Hai lần hỏi nhưng vẫn không lời đáp. Hình như đến nay câu hỏi vẫn còn nguyến đó. Nguyễn Huy Tưởng đã có sự chọn lựa lời đáp cho riêng mình.
Ông chọn lựa vì không thể lẩn tránh. Với người nghệ sỹ, sống đồng nghĩa với việc trả lời câu hỏi này. Nhưng chọn mà không tự tin. Ông chưa dám lấy hành động Vũ Như Tô làm câu khẳng định do cái kết cục bi thảm của Vũ Như Tô. Tự hỏi là một cách mình nhủ với mình. Và rồi, như tự thú: “Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”. Nguyễn Huy Tưởng chọn lối ứng xử của Đan Thiềm, của Raphael, Miken Lăng. Ông không coi đó đã là giải pháp tối ưu, dù khung cảnh lịch sử hiện đại đã xa khác lắm với thời Lê Tương Dực. Khác xa, nhưng hiểm họa vẫn còn. Nguyễn Huy Tưởng coi chọn lựa của mình chỉ như triệu chứng bệnh lý của nghề nghiệp, nghề yêu cái đẹp. Làm nghề ấy thì phải mang bệnh ấy. Như một nỗi đau của tổ nghề truyền. Đồng dạng vơi bi kịch Vũ Như Tô, còn bao nhiêu thảm án Ngục văn tự của nhân loại. Nỗi đau này chẳng của riêng ai. Càng không phải của một thời. Vở kịch lịch sử viết năm Nguyễn Huy Tưởng ba mươi tuổi đã đụng đến chiều sâu bản chất của chức năng nghệ thuật và lương tâm nghệ sỹ.
Thời cuộc khi Nguyễn Huy Tưởng bước vào văn chương là một thời cuộc bão táp, thời nhân dân chúng đứng lên đòi quyền sống, quyền tự quyết. Đòi bằng bạo lực cách mạng. Nguyễn Huy Tưởng đã sớm tự nguyện làm người lính tiên phong của lực lượng cách mạng bão táp ấy. Lập trường nhân dân, hơn thế, lập trường cách mạng vô sản ở ông chắc chắn là sâu sắc, kiên định. Không thể dung thứ một ý đồ nào mà dân chúng đã phản đối. Không thể hòa đồng với bất kỳ một mưu toan hưởng lạc nào của thống trị làm hại đến lợi ích của nhân dân. Việc rất dễ xảy ra đối với một người viết “xuôi chèo cho mát mái” trong trường hợp này, là sáng tạo một chủ đề “tài năng đứng về phía nhân dân”. Rành mạch, rõ ràng ranh giới bạn thù, có tính giáo dục phổ cập. Nguyễn Huy Tưởng đã không làm thế. Không làm thế được. Cái chất tâm hồn, cái ngưỡng trí tuệ của ông hướng ông vào chỗ cao hơn, xa hơn, giúp ông đọc ra trong cốt truyện lịch sử Vũ Như Tô, một vấn đề của nghề ông, của nghiệp ông, của thời đại ông và của trách nhiệm ông đối với tiến trình phát triển văn chương nước nhà. Nó đã đi quán xuyến cả cuộc đời ông.
Tôi không dám sa đà vào những dòng trăn trở của ông trong nhật ký và cũng không dám bàn lạm vào những dòng riêng tư ông trao đổi với bạn bè. Chỉ xin nói tới một văn bản khác, một ghi chép như một bài báo, ròng ròng chất hiện thực đời sống thanh thiên bạch nhật và những trăn trở nội tâm chân thực, đau xót và đầy cố gắng của ông, bài Một ngày chủ nhật viết tháng 5-1956
Cái năm 1956 ấy, người dân Miền Bắc nước ta đang say mê trong niềm vui thắng Pháp ở Điện Biên Phủ và ở hội nghị Genève, đang phấn chấn và tự hào sống dưới bầu trời độc lập tự do với niềm tin mênh mông vào cuộc sống hạnh phúc do chính tay mình sẽ tạo dựng... thì ập đến cải cách ruộng đất với những sai lầm khủng khiếp (Bác Hồ đã phải nhận định là tay phải ta chặt vào chính tay trái của ta). Rồi biến cố chính trị ở nước Hung, người ta từ chối chủ nghĩa xã hội... Và trong cuộc sống thường ngày, những điều trông thấy...Ngày lại ngày, những gì tốt đẹp cứ hao hụt dần. Những hao hụt ấy, cứ từng chút, từng chút, nhỏ bé thôi, người ta có thể chậc lưỡi, cho qua. Đã chết ai đâu! Nhưng Nguyễn Huy Tưởng thì thật sự lo âu. Cái nhỏ bé ấy không hề nhỏ bé, nó đã thành phổ biến và tần số xuất hiện ngày một mau hơn, tràn lan như vết dầu loang sang nhiều lĩnh vực đời sống. Là một cán bộ lãnh đạo văn nghệ của Đảng Cộng sản từ chiến khu Việt Bắc trở về, Nguyễn Huy Tưởng chắc chắn có đủ niềm tin và lòng vui như mọi cán bộ lãnh đạo khác. Ông hẳn thừa biết đâu là hệ quả tất yếu của cuộc đổi thay một thành phố tạm chiếm, “ăn bám” sang cuộc sống một thành phố lao động tự nuôi mình. Nhưng trong cảm quan bản năng của người nghệ sỹ Hà Nội Nguyễn Huy Tưởng, “chín năm ròng lòng vẫn thủ đô” vẫn có một năng lực nắm bắt chân thực và rất nhạy thực tại đời sống Hà Nội. Một nhận xét nhỏ, ông thấy những người đi ngoài phố trong ngày chủ nhật ấy: Quần áo phần lớn màu tối, lạnh và khắc khổ, đồng loạt kiểu cán bộ. Hà Nội đã mất nhiều màu sắc. Biết tiếc những sắc mầu đặc trưng của Hà Nội chính là một phẩm chất văn hóa tinh tế và sâu sắc của người cán bộ này. Một tâm sự thành thật như tự thú, một đấu tranh nội tâm đầy trách nhiệm.
Tôi nói: đầy trách nhiệm Bởi những nhận xét kiểu này dễ làm người cầm quyền phật ý. Đầy trách nhiệm nên mới vượt qua lo âu cho bản thân. Vả lại Nguyễn Huy Tưởng, ở một cấp độ nào đó cũng là một thành tố cầm quyền. Ông muốn biện hộ những “xuống cấp” của cuộc sống mới, khi đứng ngắm Hồ Gươm. Nhưng ông lại muốn hơn một cái nhìn trung thực, tìm đúng bệnh của mình, để chữa: Tôi vốn yêu hồ vì cảnh đẹp, và cũng vì nó mang dấu vết của người anh hùng yêu nước mà trước đây tôi đã có ý ngợi ca. Nhưng hồ Gươm đã mất nhiều vẻ đẹp lắm rồi. Nước hồ gợn váng, ven đầy rác rưởi. Bờ không được sạch, lủng củng những quảng cáo vụng về, bày vô tổ chức, những biển giới thiệu hình ảnh các nước bạn, hầu như không ai săn sóc, vì mặt kính không mấy khi sạch xác ruồi muỗi. Có cảm tưởng hồ bị bưng kín, và bé lại. Đường đi có nhiều chỗ lầy lội. Thùng rác như chiếc quan tài lù lù bên lối đi. Bàn tay cách mạng tới đâu là phải sửa sang, tô điểm thêm đến đấy. Tôi khâm phục sự lo âu rất sớm của nhà văn về cái hiện tượng hầu như không có ai chăm sóc ở tất cả mọi công trình xã hội. (Thực chất đó là thói vô trách nhiệm, là chủ nghĩa Mackêno, là dối trá, ăn cắp.) Nhưng điều tôi còn khâm phục hơn ấy là sự thành thật của ông. Thành thật đã trở thành dũng cảm. Hơn nửa thế kỷ đã đi qua tính từ ngày hôm ấy. Trong thâm tâm mỗi chúng ta đều đã có đủ độ lùi thời gian để thấy những lo âu của Nguyễn Huy Tưởng là có lý biết bao, thiết thực biết bao. Đó là những lo âu có tính “bản lề”. Nó có sức xoay chiều đóng mở thời vận một thể chế. Những ví dụ tiêu cực, tham nhũng nhỡn tiền hôm nay, “biết rồi , khổ lắm, nói mãi”, ai cũng thấy, to lớn và tràn ngập, chính là hậu duệ trực hệ của cái nhỏ bé làm Nguyễn Huy Tưởng lo âu.
Ông còn viết: Chúng ta muốn đổi mới cho mau đến nỗi chúng ta muốn bỏ hết. Đến cả tên của nhiều làng, rất Việt Nam mà cũng rất thi vị, người cán bộ cũng bỏ đi, thay bằng những danh từ mang tính chất tuyên truyền chính trị. Không phân biệt được làng nào với làng nào với những tên đồng loạt: Tiến bộ, Hạnh phúc, Quyết tâm, Quyết tiến... rất ít âm hưởng trong lòng người. Có nơi còn rục rịch thay những tên xóm nôm na bằng những con số! Những niên hiệu các triều đại ghi trên hoành phi, câu đối của một ngôi đình cổ kính bị xóa đi bằng vôi trắng. Trên mặt tấm hoành phi treo giữa một ngôi chùa gần Hà Nội, người ta dán lên khẩu hiệu: Đảng Lao động Việt Nam muôn năm. Các đồng chí có biết không? Trong khi các đồng chí làm những việc kỳ dị ấy, thì Đảng lo khôi phục chùa Một Cột, kéo lại chuông lên gác chùa Keo Hình như nhiều cán bộ quan niệm rằng cách mạng là xóa bỏ tất cả cái gì là quá khứ, là di tích, coi là phong kiến tất. Đừng đi quá nữa. Cuộc đời không phải chỉ có cách mạng, mà còn có lịch sử, còn có cái âm vang truyền qua các thời đại, những cái bây giờ tưởng là không dùng nữa, nhưng không có thì cuộc đời trở thành trơ trẽn, lạnh lùng. Tôi thấy không cần bình luận gì thêm khi cuộc hội thảo này đã ở cận kề ngày Nhà nước ta làm đại lễ kỉ niệm nghìn năm Thăng Long. Và thấy cũng không cần trích thêm những nhận định tương tự về những lĩnh vực hoạt động của xã hội, trong bài báo. Giá ngày ấy tiếng than thông thiết này đến được những đôi tai tri kỷ của những ai có tâm và có tầm suy nghĩ; thì việc đời đã tốt đẹp bao nhiêu. Thật trớ trêu, Nguyễn Huy Tưởng đã bị phê bình nặng nề vì cách nhìn, cách nghĩ này.
Theo quan sát mà tôi đã có về giới văn chương nước ta, tôi dám chắc hồi ấy, nhiều nhà văn đàn anh, đàn chị của chúng ta cũng có tâm bệnh giống Đan Thiềm. Nhưng cái câu hỏi đồng dạng với câu hỏi mà Nguyễn Huy Tưởng đã hai lần nhắc lại trong Đề tựa cho kịch Vũ Như Tô: Chẳng biết Nguyễn Huy Tưởng phải hay những kẻ phê Nguyễn Huy Tưởng phải ? thì không thấy ai cất lên thành tiếng. Hôm nay, ôn cố để tri tân. Biết thời ấy, biết thế ấy, không ai nỡ trách các nhà văn hồi ấy. Nhắc lại chỉ cốt thấy được một mạch tư duy xuyên suốt đời văn Nguyễn Huy Tưởng. Từ buổi đầu cầm bút đến chặng cuối đời. Mạch nhìn, mạch nghĩ ấy đưa ta đến một chiêm nghiệm của nhà văn: dám tin vào mắt mình và phải tự mình nghĩ ngợi, nghĩ ngợi từ chính sự thực mình thu nhận, mà tìm ra nhận định, tìm ra giải pháp.
Và chân thành cất lên thành tiếng.
Hà Nội, 20-9-2010
Nguồn: Lethieunhon.com
|